Skip to main content

Save Our Mangroves Now

I work as an otter conservationist to reverse the decline of mangrove habitats in Vietnam and across the globe to restore biodiversity, protect livelihoods, and mitigate against the impacts of the climate  crisis. Why mangroves matter - Superheroes of biodiversity Survival artists, nature’s kindergarten, climate savers – mangroves are versatile superheroes. They are habitat and nursery for over 3000 fish species, can store 3 to 5 times more carbon per area than tropical upland forests, and provide livelihoods for over 120 million people. But this unique ecosystem is under threat: more than a third of all mangrove forests have disappeared since the mid-20th century due to agriculture, logging, and urbanization. If deforestation rates continue, all mangroves could be lost by the end of this century. How do I protect and conserve mangroves? Our vision is a world in which thriving mangrove habitats exist in harmony with the communities they support. With a focus on Vietnam, the Save Ou...

Khám phá chùa Đức Viên của chàng tiên cá Tiun làm quản lý truyền thông ở Mỹ

Nếu tình yêu nhỏ bé thì sự ích kỷ rất lớn, vì người ta chỉ nghĩ cho bản thân hoặc gia đình của họ. Mặc kệ khổ đau của người khác. Chỉ khi có được tình yêu rộng lớn thì ích kỷ mới bị thu nhỏ lại, là lúc biết quan tâm đến xã hội, tương lai trẻ em, môi trường sống của các loài vật nhiều hơn. Có như vậy chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh mới chấm dứt. Nhưng tình yêu được quyết định bởi sức khỏe, người không có sức khỏe thì cũng không đủ sức để yêu. Lúc bệnh tật đến khiến cho tình yêu suy yếu dần, sự ích kỷ lại gia tăng. Bởi vậy người ta mới sẵn sàng sát sanh hại loài vật để nuôi dưỡng thân mình. Trong thời thế hiện nay, chúng ta cần những tấm gương sáng để noi theo cách sống lành mạnh. Thế nên học hỏi sư bà Đạm Lựu Chùa Đức Viên một bằng chứng sống cho việc xây dựng ngôi đền của tình yêu thương.

Sư bà Đàm Lựu ni sư Phật giáo lỗi lạc của Việt Nam đã sáng lập ra chùa Đức Viên

Với sự khan hiếm tài liệu về các Ni sư Phật giáo, tôi viết bài này về cuộc đời của Sư bà Đàm Lưu, một nữ tu Việt Nam, sang Mỹ tị nạn năm 1980. Bắt đầu cuộc sống mới ở Mỹ với chưa đầy 20 đô la và không biết tiếng Anh, trong vòng chưa đầy hai thập kỷ, Đàm Lưu đã khiến sự hiện diện của bà được biết đến theo nhiều cách tích cực trong cộng đồng người Việt và cộng đồng nói chung. Những công việc của bà trong việc giáo dục tăng ni, giảng dạy Phật pháp trong cộng đồng, và giúp truyền thống Phật giáo Việt Nam phát triển đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Câu chuyện cuộc đời của Đàm Lưu sẽ được kể lại một cách ngắn gọn, bao gồm suy nghĩ của bà về nhiều vấn đề khác nhau, những đóng góp đáng kể của bà cho cộng đồng Phật giáo Việt Nam và ảnh hưởng của cô đối với cộng đồng Phật giáo nói chung trong và ngoài nước. Các nguồn cho bài báo này bao gồm ghi chép cá nhân của Đàm Lưu, các cuộc trò chuyện giữa Đàm Lưu và nhà văn này trong nhiều dịp khác nhau trong 20 năm qua, các cuộc phỏng vấn qua điện thoại với những người quen biết và băng cassette về các bài giảng của sư bà Đàm Lưu.

Phật giáo đã là truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vì được du nhập vào Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ nhất bởi các thương nhân Ấn Độ, và từ Trung Quốc bởi những người Trung Quốc rời Giao Châu để thoát khỏi chiến tranh. Vào thời điểm đó, Việt Nam cũng đang bị Trung Quốc đô hộ bởi nhà Hán nên Việt Nam bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa rất nhiều. Kể từ đó, Phật giáo đã hòa quyện với các tín ngưỡng Nho giáo và Đạo giáo của Việt Nam rồi trở thành nền tảng chung của văn hóa Việt Nam. Đó là cũng là động lực để giúp người Việt Nam giành độc lập trong cuộc chiến chống lại người Trung Quốc vào thế kỷ thứ tám, cũng như trong cuộc chiến đấu chống lại những âm mưu của người Trung Quốc nhằm đô hộ Việt Nam sau này vào thế kỷ thứ mười ba và mười bốn. Trong thời hiện đại, Phật giáo đóng vai trò bảo vệ nền văn hóa truyền thống Việt Nam khi người Pháp đến đô hộ đất nước với quân đội của họ vào thế kỷ 19. Phật giáo lại trở thành đạo tâm của cả quốc gia. khi các Phật tử đứng lên phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.

Trong suốt quá trình lịch sử Việt Nam, các nam nữ Phật tử đã góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống, truyền bá các học thuyết và giá trị Phật giáo, đấu tranh giành độc lập thời Pháp thuộc và nỗ lực vì hòa bình thời Việt Nam. chiến tranh. Tuy nhiên, hầu như không có gì được ghi nhận về các nữ Phật tử Việt Nam và những đóng góp của họ. Ví dụ, trong các ghi chép của Việt Nam, chỉ có một ni cô được ghi lại cuộc đời trong Thiên Uyển Tạp Anh (Hình tượng nổi bật trong vườn thiền). Cuốn sách này được biên soạn vào những thập niên đầu của thế kỷ thứ mười bốn. Cũng tương tự với Phật giáo Trung Quốc. Kinh điển Trung Quốc chỉ có một cuốn sách nhỏ - Tỳ Hưu Ni (Những câu chuyện về các nữ tu nổi tiếng) - ghi lại cuộc đời của các ni cô nổi tiếng Trung Quốc từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 6. Từ đó trở đi không có nhiều nữ tu được liệt kê trong cuốn sách này và cuộc đời của họ chỉ được ghi lại một cách ngắn gọn.

Do đó, khi đọc về cuộc đời và những việc làm đáng chú ý của sư bà Đàm Lưu, nên nhớ rằng Đàm Lưu không phải là một Phật tử duy nhất, hoặc một nữ tu sĩ Phật giáo, có nhiều đóng góp như vậy. Tuy nhiên có rất nhiều Phật tử nam hay nữ biết đến sư bà Đàm Lưu, các nữ tu sĩ và cả các nhà sư, đều có trải nghiệm trong việc học hỏi trí tuệ của sư bà; hy vọng sẽ còn nhiều người khác cũng được sự lợi ích khi tìm hiểu thông tin về sư bà Đàm Lựu. Câu chuyện về sư bà là minh chứng sống nhắc nhở chúng ta về con đường tu hành, tiếp thêm nghị lực cho quý sư cô và Phật tử gần xa noi theo để hoằng dương chánh pháp Như Lai.

Cuộc sống sư bà Đàm Lựu ở Việt Nam

Đàm Lưu sinh ngày 4 tháng 8 năm 1932 tại tỉnh Hà Đông, miền Bắc Việt Nam. Gia đình bà theo đạo Phật và cha mẹ bà rất sùng đạo Phật. Khi Đàm Lưu được hai tuổi rưỡi, cha mẹ đưa bà đi viếng chùa Cự Đà ở địa phương của họ. Kết thúc chuyến đi đầu tiên, cô bé khóc lóc không chịu về nhà với bố mẹ. Cha mẹ không muốn để bà ở lại chùa nhưng vì bà nằng nặc đòi ở lại, họ không còn cách nào khác. Đàm Lưu bắt đầu sống với sư cô Đàm Soạn, lúc bấy giờ là trụ trì chùa Cự Đà.

Đàm Soạn là một trong những thành viên đáng kính nhất của cộng đồng Phật giáo Việt Nam. Bà là thành viên của Phật giáo Đông Đô, được nhiều người biết đến nhờ sự thông thái và sùng đạo. Bà là viện trưởng của một số ngôi chùa, đồng thời là giám đốc trường Phật học Vân Hồ, đây là một trong những trường đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam mà các nữ tu sĩ được học chính quy về Phật học. Đàm Soạn cũng từng là người dạy Phật pháp cho Hoàng hậu và hoàng tộc ở Huế, khi đó là kinh đô của Việt Nam. Cộng tác chặt chẽ với Hòa thượng Tố Liên, một trong những người tiên phong trong nỗ lực trẻ hóa Phật giáo Việt Nam, Đàm Soạn đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục Ni giới vì bà tin rằng giáo dục là một phần không thể thiếu trong việc giảng dạy Phật giáo thành công.

Vào thời điểm đó, các nữ tu Việt Nam, giống như đại đa số phụ nữ khác ở Việt Nam trong những năm 1930, thường không có nhiều cơ hội để được học chính thức, và hầu hết các nữ tu đều mù chữ. Dưới ảnh hưởng rất mạnh mẽ của Tân Nho giáo, xã hội Việt Nam nói chung khi đó một số người vẫn tin rằng vai trò xã hội của phụ nữ chỉ nên giới hạn trong gia đình. Trước khi kết hôn, phụ nữ trẻ phải vâng lời cha mình, khi kết hôn họ phải vâng lời chồng, và sau khi chồng qua đời, họ phải vâng lời con trai. Phụ nữ chỉ được phép học các kỹ năng liên quan đến nội trợ như nấu ăn, làm bánh, may vá và chăm sóc.

Dưới sự hướng dẫn và dạy dỗ của sư bà Đàm Soạn, sư bà Đàm Lưu được xuất gia làm Sramanekira khi mới 16 tuổi. Sau khi xuất gia, với sự khuyến khích của sư phụ, cô đã đi đến các trung tâm Phật giáo khác nhau ở miền Bắc Việt Nam để tìm hiểu thêm về giáo lý và thực hành Phật giáo từ các truyền thống khác. Năm 1951, khi Đàm Lưu được 19 tuổi, bà được gửi đến chùa Quán Sứ ở Hà Nội để thọ giới Tỳ kheo ni dù chưa đủ tuổi. Đó là nhờ nỗ lực đặc biệt của bà trong việc thực hành, kiến ​​thức sâu rộng về giáo lý Phật giáo và sự chân thành mà bà thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Năm 1952, sư bà Đàm Soạn được mời làm trụ trì chùa Dược Sư ở Sài Gòn và đưa sư bà Đàm Lưu vào Sài Gòn làm thị giả. Với sự hỗ trợ của cộng đồng tu sĩ địa phương, cô đã thay đổi chùa Dược Sư thành trường Phật học đầu tiên của miền Nam dành cho các sư cô. Nền giáo dục nơi đây thật phi thường, vì không chỉ các nữ tu được dạy kiến ​​thức kinh điển Phật giáo truyền thống, mà còn được giáo dục phương Tây. Vào thời điểm đó, điều này không được đại đa số Phật tử Việt Nam coi trọng. Năm 1960, Đàm Lựu không chỉ tốt nghiệp trường Dược Sư mà còn thi đậu trung học phổ thông cấp quốc gia. Cuối năm 1961, Đàm Lưu về tu tại chùa Phước Hòa, dự định chuyên tâm vào việc nghiên cứu Đại Tạng Kinh. Việc nhập thất của bà bị cắt ngắn vào năm 1963 bởi sự đối xử bất công của Tổng thống Ngô Đình Diệm đối với cộng đồng Phật giáo. Bà đã tham gia cùng với các thành viên tu viện khác trong cuộc biểu tình chống lại các chính sách của Diệm và yêu cầu tự do tôn giáo, bị chính phủ của Diệm bỏ tù và được thả sau khi Diệm bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính vào cuối năm đó.

Năm 1964, toàn giáo hội Phật giáo Việt Nam nhận thấy nhu cầu đào tạo nghề cho các tăng ni trong các lĩnh vực khác nhau là cần thiết mà theo sư bà Đàm Soạn và các cộng sự đã dự đoán trước vào năm 1952. Không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà cả nước ngoài như một phần của nỗ lực trẻ hóa tư tưởng Phật giáo để đáp ứng tốt hơn xu hướng hiện đại và tính phức tạp của xã hội Việt Nam. Một số thành viên tu viện Việt Nam, trong đó có sư bà Đàm Lưu, đã được chọn đi du học ở Ấn Độ, Pháp, Nhật, Đức. Các sư được cấp học bổng toàn phần do trường học cấp và được trao tặng thông qua tổng giáo hội Phật giáo Việt Nam. Sư bà Đàm Hương, người đứng đầu dòng tu nữ Việt Nam đồng ý với nguyện vọng của sư bà Đàm Lưu cho phép theo học ngành công tác xã hội và gửi sư bà Đàm Lựu đến Tây Đức học tập trong 5 năm. Trong một buổi trò chuyện cùng tôi, sư bà Đàm Lưu giải thích về sự lựa chọn này: “Tôi đã thấy rất nhiều đau khổ xung quanh chúng ta, ngay trước mắt chúng ta. Tôi muốn làm điều gì đó thiết thực để giúp xóa bỏ một số nỗi đau trên thế giới. Tôi yêu trẻ em và tôi muốn có một số kiến ​​thức về công tác xã hội để giúp đỡ các em một cách hiệu quả ”

Khi sư bà Đàm Lưu trở về Việt Nam vào giữa năm 1969, cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Hàng nghìn người tị nạn đã rời quê nhà và chuyển đến các thành phố để tránh bị ném bom hoặc bị cuốn vào trận chiến, trong đó có nhiều trẻ em có cha mẹ bị giết hoặc không thể tự chăm sóc bản thân. Vì lòng từ bi, cộng đồng tu viện địa phương đã quyết định cung cấp dịch vụ chăm sóc nuôi dưỡng cho những đứa trẻ mồ côi ấy. Thế nên, một cô nhi viện theo mô hình phương Tây với tên gọi Lâm Tỳ Ni được thành lập do sư bà Đàm Lưu làm giám đốc. Với sự giúp đỡ của nhiều nữ tu và nhà sư thiện nguyện, và nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau, sư bà Đàm Lưu đã điều hành trại trẻ mồ côi này cho đến cuối tháng 4 năm 1975 khi Cộng sản tiếp quản chính quyền Sài Gòn.

Ngay sau khi được tiếp quản, cô nhi viện Lâm Tỳ Ni bị giải thể theo lệnh của chế độ mới. Những đứa trẻ dưới sự chăm sóc của sư bà Đàm Lựu được nhận nuôi gửi đến một số nơi. Số còn lại không có nơi đến, thì được sư bà Đàm Lựu âm thầm gửi đến các ngôi chùa gần đó để giúp các em ổn định cuộc sống căn bản là có chỗ ăn ở để tiếp tục sống.

Năm 1976 sư bà Đàm Lưu bị áp lực tố cáo sai sự thật vì một người bạn xuất gia khá nổi tiếng ở miền Nam. Nhiều lần bị đe dọa nguy hiểm đến tính mạng nhưng sư bà không chịu làm theo âm mưu của chính phủ. Sư bà Đàm Lưu đã bí mật sắp xếp thông qua các đệ tử cư sĩ để những đứa trẻ còn ở với bà rời khỏi Việt Nam. Xong việc hết rồi bà mới tự mình thoát ra.

Tóm lại, trong thời gian sư bà Đàm Lưu ở Việt Nam, cuộc sống của bà là một nữ tu sĩ không bình thường, bắt đầu với việc cư trú trong ni viện từ năm hai tuổi rưỡi, xuất gia sớm là Bhiksuni năm 19 tuổi, sau đó bà là thị giả của sư bà Đàm Soạn. Vai trò của bà trong việc giúp thành lập trường Phật học miền Nam đầu tiên cho các nữ tu, với thành tích nổi bật của bà là một trong những nữ tu Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp trung học. Sau đó, sư bà đã học nâng cao ở nước ngoài với học bổng vào thời điểm mà nhiều nữ tu vẫn chưa biết chữ. Thật vậy, sư bà Đàm Lưu trở thành người thừa kế một truyền thống quan trọng trong việc giáo dục các nữ tu sĩ. Khi chiến tranh đến, sư bà Đàm Lựu từ bỏ kế hoạch trước đó để đứng đầu một trại trẻ mồ côi, liều mình nhiều lần để cứu những đứa trẻ sau khi tu viện bị giải thể và để cứu một đồng nghiệp mà bà bị ép phải khai man. Người ta nhìn thấy sức mạnh của sư bà Đàm Lựu là niềm tin sâu sắc vào việc thực hành Bồ tát đạo!

Sư bà Đàm Lựu đã cam kết làm những gì tốt và mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Con đường bà chọn là con đường của Bồ tát. Đức Phật dạy: "Đừng làm điều ác, hãy làm điều lành và lợi ích cho tất cả chúng sinh." Những người tôn vinh con đường của Bồ tát sẽ tự nhận nhiệm vụ giải cứu và bảo vệ tất cả chúng sinh và họ sẽ làm những gì cần thiết, đó là thử thách để hiểu hơn về biển khổ thế gian. Sư bà Đàm Lưu đã chọn giới Bồ tát và bà tham gia vào việc ban phát, giáo dục, cung cấp dịch vụ cho những trẻ em đang gặp khó khăn, và mạo hiểm sự an toàn của bản thân để bảo vệ người khác.

Cuộc sống sư bà Đàm Lựu trong trại tị nạn

Sư bà mong muốn rời khỏi Việt Nam nhưng dù vậy đã thất bại bốn lần. Cuối cùng, vào cuối năm 1978, cải trang thành một giáo dân, bà lên một chiếc thuyền đánh cá nhỏ và bắt đầu một chuyến đi mới trong cuộc đời mình. Cô đã 46 tuổi. Con thuyền lênh đênh trên biển gần một tuần và mất phương hướng, nhưng cuối cùng đã cập bến một hòn đảo ở Malaysia. Ở đó, trong một trại tị nạn ở Kuchin, Malaya, sư bà Đàm Lựu bắt đầu cuộc sống của mình như một người vô gia cư, một người không có tổ quốc. Xung quanh cô là rất nhiều người tị nạn khác, những người đang tuyệt vọng, cạn kiệt tình cảm, đầy giận dữ và sẵn sàng đổ lỗi cho người khác về những đau khổ đã xảy ra với họ ở Việt Nam và trong trại này.

Đặc biệt, sư bà Đàm Lưu quyết định không nhìn vào lỗi lầm của người khác và đổ lỗi cho họ mà thay vào đó, bà dùng thời gian để suy ngẫm về sự vô thường của cuộc sống và những gì con người có thể học hỏi từ đó. Nói đến đây chúng ta có thể biết được Đàm Lưu đã sống khổ hạnh như thế nào. Một đồng nghiệp của sư bà Đàm Lựu kể lại những gì sư bà đã nói về cuộc sống trong trại: "Tôi thực sự bắt đầu thiền định về sự vô thường một cách nghiêm túc khi tôi trên thuyền rời Việt Nam. Thuyền quá đông và không đủ chỗ để nằm. Tôi bị đẩy vào một góc và từ góc đó, tôi có thể quan sát những gì mọi người đã làm với nhau. Thật ngạc nhiên, tôi nhận thấy rằng khi hoàn cảnh tồi tệ và khi mọi người phải chịu đựng, mọi người chống lại nhau vì những thứ nhỏ bé. Trên thuyền, Tôi ngẫm nghĩ về cuộc đời của Đức Phật mà tôi đã học trong kinh tạng, ngài hy sinh mọi thứ vì lợi ích của người khác, và cho cả động vật. Ngài không quá để ý đến bản thân. Ngài không có bất kỳ chấp trước nào với những gì ngài có. Quan tâm đến người khác là điều mà Đức Phật đã thực hành và ngài chưa bao giờ chống lại người khác vì những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống. Những ký ức này hiện về trong tâm trí tôi và chúng giúp tôi kiềm chế bản thân. Tôi không tranh giành vì chỗ ở chật chội, thiếu nước uống, hay thiếu thức ăn. Tôi luôn tự nhắc nhở mình rằng là một ni sư, tôi không được phép đánh nhau, tức giận hay tranh cãi. Những người trên thuyền không biết danh tính thực sự của tôi. Họ nghĩ rằng tôi là một nữ giáo dân và nên cũng chẳng bận tâm tôi có tham gia những cuộc ẩu đả trên thuyền hay không. Tôi từ chối tranh giành vì tôi biết mình là một nữ tu sĩ và tôi cần phải sống những gì tôi tin tưởng. Khi chúng tôi lên bờ, mọi người mới phát hiện ra tôi là một sư cô nhưng nhiều người không quan tâm. Họ chỉ bận tâm đến việc của mình và lo lắng về những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhiều người dường như mất niềm tin khi đối diện với sự khốn khó của họ trong trại. Họ đã làm bất cứ điều gì dường như có lợi cho họ mà không cần nghĩ đến bất cứ nghiệp chướng nào họ đang tạo. Họ hành động như thể sẽ không có gì sau kiếp này và do đó không sợ những ác nghiệp mà họ có thể tích lũy trong cuộc đời ngắn ngủi này. Tôi quan sát và đi đến kết luận rằng họ chỉ là những Phật tử hư danh, không học hay thực hành giáo lý. Nếu họ đã học Phật pháp hoặc thực hành giáo lý đó một cách nghiêm túc thì họ đã không làm điều xấu với người khác và họ sẽ không thay đổi quan điểm sống tích cực trong thời kỳ khủng hoảng. Bản thân tôi quyết định tiếp tục con đường Phật giáo của mình bằng cách cố gắng hết sức làm những gì Đức Phật đã nêu gương qua các kiếp trước: quên mình và nghĩ đến lợi ích của người khác trước tiên.”

Ngay cả khi bị căng thẳng và thiếu thốn, với quyết tâm thực hành Phật pháp, sư bà Đàm Lựu đã làm bất cứ điều gì có thể để tôn kính giới Bồ tát. Bà không chỉ từ chối tham gia đấu tranh chống lại những người khác vì những tiện ích nhỏ trong trại, mà còn cố gắng làm bất cứ điều gì có thể để cuộc sống của những người khác bớt khổ hơn. Bà ấy kể lại những gì đã làm cho người khác khi vẫn còn ở trong các trại tị nạn:

“Trong thời gian ở trại, tôi không muốn lãng phí thời gian của mình để làm gì và chỉ chờ thời gian để tái định cư ở một đất nước khác. Tôi quyết định làm điều gì đó thiết thực để giúp đỡ những người tị nạn khác. Với một số tiền nhận được từ những người bạn ở Đức và Mỹ, tôi đã cung cấp cho những người trẻ mà tôi gặp trong các trại có thêm thức ăn và quần áo. Nhiều người trong số họ còn trẻ và chưa từng trải qua những đau thương trong cuộc đời trước khi trốn khỏi Việt Nam. Họ lạc lối, đói khát cả thức ăn và tình yêu, và cần một ai đó hướng dẫn họ cách đối phó với tương lai mờ mịt và không rõ của họ. Tôi đã làm bất cứ điều gì có thể để loại bỏ sự đau khổ của họ. Tôi nấu cho họ bất cứ loại rau nào mà tôi tìm được. Tuy nhiên, tôi không phải là một người nấu ăn giỏi, vì tôi đã không nấu ăn trong một thời gian dài. Luôn có người nấu ăn cho mọi người ở trại trẻ mồ côi Lâm Tỳ Ni. Là một người ăn chay, tôi không thể nấu bất cứ thứ gì có thịt cho họ mặc dù tôi biết rằng nhiều người trong số họ đã từng ăn thịt. Tôi nhận ra rằng họ rất khó để ăn chay. Thỉnh thoảng, tôi đưa cho họ một số tiền để sử dụng cá nhân. Họ đến một nhà hàng do một gia đình cư dân trên đảo điều hành để dùng bữa với thịt. Tôi biết họ đã làm gì với số tiền tôi đưa nhưng tôi không nói gì. Nhiều người trong số họ đến trại chỉ với chiếc quần đùi trên người. Trong khi chờ Hội Chữ Thập Đỏ đến và cứu trợ, tôi đã dùng tiền của mình để mua cho họ những bộ quần áo đã qua sử dụng từ những người Malaysia địa phương. Những bộ quần áo này không lớn nhưng 'một số ít khi cần thiết sẽ có ý nghĩa hơn một tấn khi người không có nhu cầu.' Nhiều người cho rằng tôi 'ngu' vì không dùng tiền mà bạn bè gửi từ Đức về để lo cho các nhu cầu của mình. Khi được biết về nhận xét đó, tôi chỉ cười trừ và không phản hồi. Tuy nhiên, trong tâm trí của tôi, tôi cảm thấy tồi tệ cho những người đã đưa ra nhận xét đó. Họ có thể nhầm lẫn mong muốn với nhu cầu. Lúc đó tôi vẫn còn hai bộ quần áo và tôi không cần thêm nữa. Đối với tôi, những người không có bất cứ thứ gì ngoài một chiếc quần đùi hoặc quần dài thì tại sao tôi lại phải cần thêm bộ đồ khác. "

Bằng cách làm điều gì đó thiết thực để loại bỏ nỗi đau và sự đau khổ cho người khác - chẳng hạn như cung cấp thực phẩm và quần áo cho những người đói và lạnh, cung cấp hướng dẫn cho những người mất hy vọng, cung cấp tình yêu và sự hiểu biết cho những người cần nó, và bao dung ngay cả hành động của người khác khi họ làm những việc ngược lại với đức tin của sư bà Đàm Lưu, thời gian ấy bà không truyền giáo hay nói bất cứ gì với ai về Phật pháp mà chỉ dùng tâm từ bi và sự độ lượng để đối đãi bình đẳng với tất cả. Nhưng lòng tin vào chân lý của Đức Phật vẫn luôn có sẵn trong bà!

Cuộc sống sư bà Đàm Lựu ở Mỹ

Sau khi ở trại tị nạn hơn một năm, sư bà Đàm Lựu đến Mỹ năm 1980 khi 48 tuổi với trong túi chưa quá 20 đô la để bắt đầu cuộc sống mới. Đầu tiên, bà ở tại một ngôi chùa phía Đông Palo Alto và tham gia các khóa học tiếng Anh, nhưng được một thời gian thì bà đã từ bỏ kế hoạch của mình để dành thời gian cho những người tị nạn khác đến khu vực bà sinh sống. Bà tình nguyện giúp đỡ họ bằng cách đưa những người tị nạn mới đến nơi thu gom quần áo cũ, đến các phòng khám y tế, và đến các cửa hàng tạp hóa trên chiếc xe cũ của bà, một chiếc Pinto, do một Phật tử Việt Nam tặng cho bà.

Là một người phụ nữ ở một vùng đất xa lạ, nơi văn hóa khác biệt, thiếu cả vốn tiếng Anh lẫn nguồn tài chính vững chắc, sư bà Đàm Lưu không có hoạch định tương lai vững chắc mà chỉ tâm nguyện sống được ngày nào giúp người ngày ấy, y giáo phụng hành theo gương đức Phật thực hành và bắt đầu giảng dạy Phật pháp, mong muốn phục vụ cho phật tử và hướng dẫn các ni trẻ cách tu hành, sư bà luôn sẵn sàng hy sinh và chịu đựng những trở ngại nếu cần thiết, và tình yêu của bà đối với tất cả chúng sinh vô cùng lớn. Ngày càng được các phật tử yêu quý và theo tâm nguyện của một số gia đình người Việt sinh sống tại San Jose, năm 1981, sư bà Đàm Lưu đã di dời đến vùng này và tự mình lập chùa.

Không có nhiều sự hỗ trợ từ cộng đồng, sư bà Đàm Lưu đã khởi công xây dựng chùa Đức Viên với quy mô khiêm tốn. Bà thuê một căn nhà nhỏ ở phía Đông của San Jose và sử dụng phòng khách làm Phật đường. Một căn lều được dựng ở sân sau như một hội trường đa năng: làm nhà ăn khi mọi người dùng bữa, hoặc giảng đường khi dạy Phật pháp, cũng có phòng cho trẻ em học tiếng Việt và thậm chí là phòng ngủ cho những người muốn qua đêm với túi ngủ của họ.

Tiền quyên góp từ các Phật tử không đủ để trả tiền thuê nhà và các chi phí khác, vì vậy sư bà quyết định tìm một số cách khác để kiếm tiền mà không bị gò bó trong các hoạt động tôn giáo của mình. Ban ngày sư bà Đàm Lựu siêng năng phục vụ ni cô tại ngôi chùa nhỏ của mình. Vào buổi tối và sáng sớm, sư bà đi nhặt ve chai ở bãi rác công cộng để đổi lấy tiền. Sau đó, với sự tham gia của các phụ nữ Phật tử lớn tuổi khác, sư bà nhặt thêm báo chí cũ để tăng thu nhập. Cứ từng đồng xu góp nhặt bao nhiêu năm trời ấy thế mà cũng đến lúc sư bà Đàm Lựu đã xây dựng được ngôi chùa khang trang hơn. Để làm được những điều này sư bà đã sống rất cống hiếng vì mọi người, không một ngày nào quan tâm đến sức khỏe của bản thân.

Sư bà Đàm Lưu đã làm gì để giúp đỡ mọi người? Là người tin tưởng mạnh mẽ vào ba phương châm sống của Phật giáo Việt Nam: Từ bi (vì người khác), trí tuệ (để nhìn ra sự khổ thế gian), và can đảm (để giúp sanh thoát khổ sống an vui), sư bà Đàm Lưu đã làm đủ mọi cách. Trong mỗi trường hợp, sư bà đều giải thích kỹ:

"Khi mọi người đến với tôi và phàn nàn rằng họ không đủ tiền thuê nhà, tôi luôn cố gắng ghép những người này với một gia đình có thêm phòng để chia sẻ. Những người khác đến chùa vì cô đơn và nhớ nhà; tôi nấu ăn cho họ, nói chuyện với họ và lắng nghe họ, và khuyến khích họ. Tôi đã cố gắng hết sức để cung cấp cho họ một môi trường gia đình thay thế, trong đó mọi người quan tâm lẫn nhau. Đối với những người đến và than phiền về những đau khổ trong cuộc sống của họ, tôi đã ngồi xuống với và trò chuyện với họ về những trải nghiệm của họ và giúp họ suy ngẫm về sự vô thường của vạn vật trên đời. Tôi luôn cố gắng giúp họ nhìn thấy tương lai tươi sáng từ những đau khổ hiện tại của họ cho dù họ có đau đớn đến đâu. Tôi rất thường khuyên họ tự nhìn lại bản thân trước khi đổ lỗi cho người khác về vấn đề của họ. Nguyên nhân và kết quả thường đan xen nhau và rất khó để loại bỏ chúng. nhiều vấn đề, nhưng ít nhất họ biết rằng tôi quan tâm và tôi sẵn sàng cố gắng hết sức để giúp đỡ. Tôi đã làm tất cả điều này mà không cần bất kỳ tổ chức nào hỗ trợ. Tôi thích có quyền tự do đưa ra quyết định dựa trên sự nhận định của bản thân. Tôi không muốn bị ảnh hưởng bởi những người khác. Nếu gặp người hoạn nạn, tôi không muốn phải xin phép tổ chức mới được giúp đỡ. Tôi sẽ đưa ra quyết định ngay tại đó và nếu tôi không thể tự mình giúp đỡ, thì tôi mới nhờ người khác hỗ trợ. Vì một lý do nào đó, có tin đồn rằng tôi là một điệp viên Cộng sản thâm nhập vào cộng đồng người Việt ở San Jose. Tôi đã nghe tin đồn nhưng tôi không để ý đến nó. Tại sao phải bận tâm đến những tin đồn trong khi có rất nhiều thứ để tôi quan tâm? Hơn nữa, chính tôi là người hiểu rõ bản thân mình nhất. Tôi biết chắc rằng mình không phải gián điệp là đủ rồi. Bạn không thể mong đợi mọi người trên thế giới hiểu bạn, đặc biệt là khi họ không quan tâm."

Qua những cuộc trò chuyện với người tị nạn ở Mỹ lâu năm, sư bà Đàm Lựu thấy rằng thế hệ con cháu Việt Nam thường sử dụng tiếng Mỹ trong giao tiếp. Họ nói tiếng Anh ngay cả với ông bà của mình, là những người dường như không hiểu họ nói gì. Họ cũng tiếp thu quá nhiều văn hóa Mỹ và cách cư xử không phù hợp với văn hóa Việt Nam. Họ khó thể nói chuyện tiếng Việt với các thành viên trong gia đình nên thường xảy ra mâu thuẩn. Nhiều người Việt Nam lớn tuổi phàn nàn với sư bà Đàm Lưu rằng con cháu của họ đang mất gốc vì hòa nhập vào văn hóa Mỹ quá nhanh.

Sư bà Đàm Lựu giải quyết vấn đề này theo hai cách. Đầu tiên, bà khuyên những người Việt lớn tuổi nên học tiếng Anh để họ có thể hiểu chuyện. Điều này sẽ làm cho cuộc sống của họ dễ dàng gần gũi hơn. Sau đó, sư bà bắt đầu một chương trình thay đổi mà hàng ngàn tổ chức cộng đồng người Việt đang bắt chước trên khắp Hoa Kỳ: bà mở một trường dạy tiếng Việt tại chùa. Các lớp học vào mỗi Chủ nhật. Lúc ấy, sư bà còn hơi lo ngại, vì phản ứng của phụ huynh không được nhiệt tình cho lắm. Chỉ có bốn học sinh trong hai tuần đầu tiên đến trường. Phụ huynh than phiền về công việc bận rộn của họ sau một tuần làm việc dài, mà còn phải đưa con cái đi học tiếng Việt, một ngôn ngữ không được chú trọng lắm ở Mỹ.

Nhưng một thời gian sau được giúp đỡ của các tình nguyện viên Việt Nam, sư bà Đàm Lựu đã tạo ra sức hút mạnh mẽ khiến nhiều phụ huynh cho con em mình đi học tiếng Việt. Nhà chùa không chỉ cung cấp các bài học tiếng Việt cho trẻ em mà còn cung cấp bữa trưa miễn phí. Số lượng học sinh tăng lên nhanh chóng. Các bậc phụ huynh có thể để con cái ở chùa vào sáng Chủ nhật, rồi đi chợ, và ghé qua đón con về nhà. Một số cha mẹ thậm chí còn để con cái của họ ở chùa cả ngày Chủ nhật để các em có nhiều thời gian hơn cho việc học tập. Điều đó không hề làm sư bà Đàm Lưu bận tâm mà chỉ tội nghiệp cho các tình nguyện viên, thế nên đôi khi sư bà Đàm Lựu phải nấu ăn chiều cho các em học sinh. Mặc dù sư bà Đàm Lưu không ăn gì sau bữa trưa. Bởi vì việc nấu ăn buổi chiều của các sư cô hoặc sư thầy bị coi là vi phạm giới luật, hay các quy tắc trong thiền viện. Khi được hỏi về "vi phạm" nhỏ này, sư bà Đàm Lựu cười và chia sẻ:

“Chúng ta cần hiểu giới luật bằng trí tuệ. Quy tắc đó được tạo ra để ngăn chặn các tăng ni phát triển ham muốn với thức ăn và giải đãi bản thân. Hơn nữa, các tăng ni thường đi khất thực. Nếu họ ăn ba bữa một ngày thì sẽ đi khất thực rất nhiều, thì thời gian đâu mà thiền định? Khi chúng ta nấu ăn, sẽ làm cho các ngã quỷ sân si vì nhìn mà không thể ăn được. Để ngăn chặn sự đau khổ này của ngã quỷ, chúng ta làm phải làm nghi lễ bố thí thực và tụng kinh vào buổi chiều để cầu nguyện cho sự giải thoát của họ. Các tình nguyện viên của tôi và tôi nấu ăn vào buổi chiều, không thể bị xem là vi phạm giới luật nhà Phật, chúng tôi làm việc đó vì lòng từ bi và vì lợi ích của người khác."

Bốn năm sau, ngôi nhà thờ Phật đã phát triển vượt bậc và được di dời đến một địa điểm mới rộng đến 2743 mét ở góc Đại lộ McLaughlin và đường Tully ở San Jose, California. Một ngôi chùa mới được xây dựng với thiết kế kiến ​​trúc truyền thống của Việt Nam, với một không gian rộng lớn dành cho các lớp học dạy tiếng Việt. Sự tăng trưởng đã tiếp tục cho đến thời điểm này. Mười bảy năm sau, sư bà Đàm Lựu chỉ từ một ngôi nhà thuê nhỏ bé trở thành một ngôi chùa lớn mang đậm truyền thống Việt Nam, mà từ một vài tình nguyện viên trở thành vô số các thầy cô giáo dạy tiếng Việt, và số lượng Phật tử cũng đông lên đáng kể. Các em học sinh thiếu nhi tăng thêm 60%, toàn chùa có trên 250 học sinh đến học tiếng Việt. Vào ngày Chủ Nhật hằng tuần chùa Đức Viên luôn có bữa ăn trưa miễn phí cho các em.

Trong khi dạy học để phục vụ cộng đồng Việt Nam, sư bà Đàm Lưu cũng bắt đầu xây dựng ni viện đầu tiên tại Mỹ. Hai năm sau khi ngôi chùa được thành lập, một số cô gái trẻ đã trở thành sa di và ni cô dưới sự hướng dẫn của sư bà Đàm Lưu. Chẳng bao lâu các nữ tu Việt Nam từ khắp Hoa Kỳ đã đến nhờ cô giảng dạy. Số lượng nữ tu đã tăng lên trong những năm qua và đến nay là khoảng hai mươi vị. Như vậy là ni viện Việt Nam đầu tiên trên đất Mỹ đã được thành lập nhờ vào ơn đức của sư bà Đạm Lựu.

Sư bà Đàm Lựu không chỉ thuyết pháp cho các sư cô mà còn có cả sư thầy. Do thiếu người tu, phật giáo Việt Nam ở Bắc California không phát triển, nên sư bà Đàm Lựu cho phép tăng ni ở những nơi khác cùng vào nhóm tu học chung. Với kinh nghiệm giảng dạy Phật học chuyên nghiệp của sư bà đã cung cấp cho các tu sĩ kiến thức cơ bản về Phật học. Các tu sĩ cũng được tham gia các khóa học tại các trường đại học và cao đẳng cộng đồng địa phương để hiểu rõ hơn về thế tục. Các tu sĩ còn được sư bà Đàm Lựu hỗ trợ tài chính trong quá trình học tập và một số thầy cô vẫn đang tiếp tục học để theo đuổi bằng thạc sĩ và tiến sĩ.

Nhiều thầy cô tốt nghiệp từ trường Phật học này hiện đang làm giảng sư tại các ngôi chùa trên khắp Hoa Kỳ, Châu Âu và Đông Nam Á. Ví dụ, một số ít làm giáo thọ tại Làng Mai, một cộng đồng tu sĩ ở Pháp do sư thầy Thích Nhất Hạnh, một thiền sư nổi tiếng Việt Nam đứng đầu.

Sư bà Đàm Lưu có một tâm hồn cởi mở khác thường và có ý định cho các tăng ni thoải mái trong việc lựa chọn phương pháp tu hành, bằng cách sư bà Đàm Lưu đã tạo ra một chương trình giảng dạy mới cho Phật giáo ở Mỹ. Đối với bà, chương trình giảng dạy truyền thống của Việt Nam tập trung quá nhiều vào phật giáo Đại thừa và các văn bản kinh điển từ Trung Quốc. Còn quý Tăng Ni, Phật tử ngày nay thiếu hiểu biết về kinh điển Pali. Do đó, nhiều người sẽ không đủ kinh nghiệm để lĩnh ngộ phương pháp tu thiền nguyên thủy của đức Phật Thích Ca. Thế nên sư bà Đàm Lưu, lấy bản thân trải nghiệm pháp môn Tịnh Độ, để xem đó có thật sự phù hợp với căn tánh chúng sanh thời nay như lời các chư tổ đã dạy. Tuy vậy các tăng ni tại trường Phật học của sư bà đều được giảng dạy lý thuyết và thực hành trong tất cả phương pháp tu của Phật giáo cả nguyên thủy, và đại thừa, với sự trợ giúp của các Lạt ma Tây Tạng, thiền sư nổi tiếng. Với quan niệm không phân biệt tôn giáo và luôn sẵn sàng hỗ trợ học viên tu sĩ của mình, sư bà Đàm Lưu đã gửi những tăng ni có sở thích về phương pháp khác với phương pháp mà cô đã thực hành đến các trung tâm thích hợp để cho học tập thêm, bên cạnh đó sư bà cũng sẽ hỗ trợ tài chính để quý tăng ni có thể hoàn tất chương trình tu học ở những nơi đó. Một số được gửi sang Miến Điện để học phương pháp thiền Insight, và một số đến Làng Mai ở Pháp để học thiền Chánh niệm với thầy Thích Nhất Hạnh. Cả giới luật Sravaka và Bồ tát đều được giảng dạy nhưng sư bà Đàm Lưu nhấn mạnh đến Bồ Tát giới vì tinh thần chịu khổ đau và cống hiến để giúp chúng sinh thoát khỏi vô minh.

Có người kể lại chuyện sư bà đi giựt biên khi sống trong trại tị nạn, sư bà Đàm Lưu đã chứng kiến nhiều người Việt Nam tự nhận là Phật tử nhưng không hành xử theo giáo lý đức Phật. Hành vi của họ thay đổi nhanh chóng và đức tin của họ suy yếu khi đối mặt với những khó khăn và cám dỗ thế gian. Họ sẽ quên đi lòng từ bi và buông xã; họ sẽ hành động vì những điều có lợi cho bản thân. Sư bà Đàm Lưu đã không quên những kỷ niệm ấy. Và cho rằng sự thay đổi tính cách trở nên xấu xa của con người là thiếu kiến ​​thức về các nguyên tắc Phật giáo. Vào năm 1980, sư bà Đàm Lựu quyết định thử nghiệm một cách rất mới mẻ để giúp người khác hiểu được giáo lý nhà Phật: Tất cả việc tụng kinh ở chùa của sư bà đều phải được dịch sản tiếng Việt cho dễ hiểu, không sử dụng tiếng Hán Việt nữa. Sự đổi mới này làm ảnh hưởng đến các ngôi chùa ở Mỹ và nước ngoài cũng noi theo.

Ngay từ buổi đầu lịch sử, Việt Nam đã tiếp xúc gần gũi với nền văn hóa và văn minh Trung Hoa. Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ hơn một nghìn năm từ năm 111 trước công nguyên đến năm 938 sau công nguyên và trong thời kỳ ấy Việt Nam từng được coi là một tỉnh của Trung Quốc. Nên người Việt Nam học được nhiều điều từ văn hóa, phong tục và ngôn ngữ Trung Quốc nhưng họ vẫn giữ được bản sắc dân tộc riêng của mình khác với người Hoa. Sau khi người Việt Nam giành được độc lập từ tay người Trung Quốc vào năm 938 sau công nguyên, nhiều khía cạnh của văn hóa Trung Quốc vẫn là một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam, cho đến tận thế kỷ 20. Một trong số đó là hệ thống tư tưởng thành văn của Trung Quốc. Trong gần 10 thế kỷ, sau khi độc lập khỏi người Hoa, hệ thống chữ viết của người Hoa vẫn được coi là hệ thống chữ viết chính thức của Việt Nam. Nó được các triều đại kế tiếp sử dụng trong các kỳ thi cấp quốc gia cho đến năm 1918. Do đó, tất cả kinh Phật ở Việt Nam đều được sao chép bằng chữ Hán. Ngay cả ngày nay, hầu hết kinh Phật được cộng đồng tu sĩ Việt Nam sử dụng vẫn được viết bằng chữ Hán.

Sau khi bảng chữ cái phương Tây được ra mắt, các ký tự Trung Quốc đã nhường chỗ cho các cách viết chữ La Mã. Tuy nhiên, nhiều từ La Mã hóa chỉ là phiên âm của tiếng Trung Quốc. Hệ thống này được gọi là Hán Việt. Cách tụng kinh bằng tiếng Hán Việt đã có từ vài trăm năm trước và vẫn tiếp tục được sử dụng tại nhiều chùa ở Việt Nam ngày nay cũng như ở Hoa Kỳ nhiều Phật tử do không biết từ ngữ Hán Việt nên đã không hiểu cặn kẽ những gì họ đang tụng kinh trong các buổi lễ ở chùa hay tại nhà riêng của họ. Nhiều Phật tử Việt Nam sinh hoạt chủ yếu bằng đức tin và lòng sùng đạo và họ cũng không hiểu nhiều về các phương pháp tu mà Đức Phật đã dạy.

Để làm cho kinh sách dễ hiểu đối với các Phật tử mới cũng như thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ, sư bà Đàm Lưu đã mạnh dạn đi ngược lại truyền thống bằng cách tạo ra cuốn sách kinh tiếng Việt của riêng mình. Đối với cuốn sách, sư bà đã chọn những câu chữ tiếng Việt thiết thực với đời sống hằng ngày để tụng trong các buổi lễ chính thức tại chùa. Nỗ lực cải cách Phật giáo của sư bà đã được các bạn trẻ nhiệt tình đón nhận. Nó cũng bị nhiều chỉ trích từ các Phật tử lớn tuổi. Họ buộc tội sư bà Đàm Lưu đang hủy hoại Phật giáo. Một số người đe dọa sẽ ngừng hỗ trợ tài chính cho chùa. Những lời buộc tội và đe dọa này không ngăn cản được sư bà Đàm Lưu làm những việc đúng đắn. Khi được một cư sĩ tại gia hỏi về vấn đề này năm 1983, sư bà Đàm Lưu đã trả lời như sau:

"Thời thế thay đổi thì phải học cách thích nghi theo. Lúc Đức Phật còn sống cũng vậy, người ta chẳng biết tụng kinh là gì. Nhưng khi Đức Phật nhập diệt, các tăng ni bắt đầu đọc thuộc lòng những gì Ngài đã dạy. Việc tụng kinh là để làm sống lại những gì Đức Phật đã dạy. Ngày xưa người Việt Nam dùng tiếng Hán nên nhiều người hiểu từ ngữ Hán Việt, ngày nay không có nhiều người Việt hiểu được Hán Việt nên không có lý do gì để tụng kinh bằng từ ngữ ấy nữa. Hơn thế, Đức Phật dạy chúng ta hai nguyên tắc trong việc tu hành: Nguyên tắc thứ nhất là khi làm bất cứ việc gì cũng phải phù hợp với chánh pháp, thứ hai là chúng ta phải thuyết pháp phù hợp với nhu cầu xã hội. Tôi không thấy có gì sai khi tụng kinh bằng tiếng Việt. Vì điều này sẽ giúp bạn hiểu rõ giáo lý tốt hơn, mặc dù mới đầu có thể thấy khó đọc."

Ý tưởng tụng kinh Phật hoàn toàn bằng tiếng Việt của sư bà hiện đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi tại nhiều chùa ở Hoa Kỳ. Cho đến hôm nay hầu như ở các chùa đều dùng quyển kinh thuần Việt mà sư bà đã cải cách.

Tuy nhiên, theo ý kiến ​​của sư bà Đàm Lưu, việc sử dụng các văn bản chữ Quốc ngữ trong các buổi lễ vẫn chưa đủ. Chỉ hai tuần sau khi ngôi chùa Đức Viên Sanjose được thành lập, với sự giúp đỡ của một người bạn xuất gia làm giảng viên, sư bà Đàm Lưu bắt đầu các buổi thuyết giảng hàng tuần về Phật giáo bằng tiếng Việt. Ý định của sư bà là cung cấp cho các Phật tử tại gia cả kiến ​​thức và phương pháp thực hành để áp dụng các nguyên tắc Phật giáo trong cuộc sống bận rộn hàng ngày của họ ở Hoa Kỳ. Tại chùa, các Phật tử thường cầu nguyện và tụng kinh với sự hướng dẫn của các nữ tu sĩ. Từ năm 1995 trở đi, các bài giảng cũng được cung cấp bằng tiếng Anh tại chùa Đức Viên để phù hợp với những người trẻ tuổi Việt Nam thông thạo tiếng Anh hơn tiếng Việt. Các học giả và hành giả từ nơi khác cũng được mời đến thuyết pháp tại chùa Đức Viên. Sách tiếng Anh và tiếng Việt miễn phí về Phật giáo cũng được cung cấp thông qua sự quyên góp từ thiện. Ngày nay chùa Đức Viên là một trong những nhà phân phối lớn các kinh văn Phật giáo Việt Nam miễn phí tại Hoa Kỳ và nước ngoài.

Bản thân sư bà Đàm Lưu cuối cùng cũng trở thành một giáo viên giảng pháp ở Mỹ. Sư bà có chuyên môn về Luật tạng và Tịnh độ nên đã được mời giảng dạy cho nhiều ngôi chùa ở Canada, Pháp, Đức và Ấn Độ. Sư bà Đàm Lựu cũng đã vinh dự được chọn làm trụ trì trong các buổi lễ thọ giới quốc tế do thiền sư Thích Nhất Hạnh tổ chức tại Làng Mai, để truyền giới cho các vị mới xuất gia từ Tây Ban Nha, Nam Phi, Úc Châu và một số quốc gia khác. Một trong những sư cô đã từng học với sư bà tại Làng Mai, là sư cô Chân Không, một trợ lý lâu năm của Thích Nhất Hạnh, đã nói điều này trong bức thư gửi cho sư bà Đàm Lưu vào ngày sinh nhật năm 1998:

“Tất cả chúng con, những người con được sư bà xuất gia cho theo Phật, đang cố gắng học cách sống không vướng mắc bụi trần của sư bà. Người đã vượt qua rào cản của tiền tài, vật chất. Dù sư bà đã đang bước trên đà danh vọng, nhưng không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến phẩm hạnh của sư bà. Sư bà đã xây dựng được một trong những ngôi chùa vĩ đại nhất trên đất Mỹ, nhưng sự cao quý của ngôi chùa vẫn không thay đổi cách sư bà nhìn nhận cuộc sống hay cách sư bà đối xử với người khác. Được nhiều người yêu quý nhưng sư bà không phân biệt mà lại cứ sống rất khách quan. Sư bà là núi cao, sông rộng, và đại dương bao la. Sư bà là giọt sương trong sáng, là bông hoa lặng lẽ xinh đẹp điểm tô cho con đường đi của vô số chư Phật tương lai.”

Những phẩm chất cao quý của sư bà Đàm Lựu

Là người đứng đầu một cộng đồng tu viện lớn, sư bà Đàm Lưu đã sống cuộc đời như thế nào? Đã luyện tập như thế nào? Sư bà có lối sống rất giản dị của một người tu khổ hạnh, với một bữa ăn mỗi ngày và không bao giờ sở hữu nhiều hơn ba bộ quần áo. Khi mọi người tặng cho sư bà những món đồ giá trị, sư bà sẽ nhận món quà, nhưng sẽ thường cho lại người khác cần hơn.

Dù được biết đến nhiều nhờ những công việc phục vụ cộng đồng Phật giáo ở Việt Nam và nước ngoài, nhưng sư bà Đàm Lưu vẫn đề phòng để tránh sự nổi tiếng. Trên thực tế, sư bà khó đối phó với sự nổi tiếng và sự khen ngợi hơn là những lời vu khống, phỉ báng, coi thường hoặc xúc phạm. Năm 1996, sư bà Đàm Lưu chia sẻ quan điểm về sự nổi tiếng và một số vấn đề khác trong cuộc sống với các đệ tử rằng:

“Dễ bị dính vào những tin tức thuận lợi chỉ khiến cái tôi của bạn lớn hơn mà thôi. Nếu mọi người khen ngợi bạn vì đã làm điều gì đó tốt cho người khác và bạn trở nên gắn bó với những lời khen ngợi, bạn sẽ có xu hướng tìm kiếm những lời khen ngợi tương tự. Khi điều đó xảy ra, bạn không còn làm điều tốt vì lòng từ bi và lợi ích cho người khác, mà vì lợi ích của bản thân. Hành động của bạn lúc đó chứa đầy những hạt giống bất thiện ngăn cản bạn được tự do. Trong tu học của tôi, tự do có nghĩa là không bị ảnh hưởng và không bị dẫn dắt bởi những phiền não bất thiện như tham lam, sân hận, tà kiến, nghi ngờ khả năng của bản thân, kiêu căng, ngạo mạn, tham lam và keo kiệt. Để được giải thoát hoàn toàn, chúng ta phải thực hành nghiêm túc Sáu Ba La Mật. Nếu chúng ta dính mắc vào những gì người ta cho, chẳng hạn như danh vọng, và khó buông bỏ nó, thì làm sao có thể buông xã (Dana paramita) được? Nếu mọi người chỉ khen ngợi chúng ta và không ai phỉ báng, chỉ trích, hay xúc phạm chúng ta, thì làm sao chúng ta có thể thực hành trọn vẹn hạnh nhẫn nhục (Ksanti paramita)? Nếu tâm chúng ta bị xáo trộn bởi những lời vu khống và lăng mạ hay được thổi phồng lên bằng những lời khen ngợi từ người khác, thì việc thực hành sự thiền định (Dhyana paramita) ở đâu? ”

Sư bà Đàm Lưu thực hiện nghiêm túc những cách làm này trong công việc và sinh hoạt hàng ngày. Sư bà không bao giờ mong muốn được bình đẳng với người khác; nói đúng hơn là sư bà luôn coi mình thua kém hơn người khác. Đối với các nữ tu ở độ tuổi của bà và các nhà sư, sư bà luôn tự xưng mình là “con”. Đối với các nữ tu trẻ hơn và ngay cả với Phật tử, sư bà tự xưng là “tôi”, nghĩa đen là “tôi tớ của bạn”. Sư bà luôn đối xử với mọi người như nhau cho dù họ xưng hô như thế nào.

Các cuộc biểu tình chống lại Phật giáo từ năm 1994-1998 ở Mỹ mang đến một cơ hội bất thường để thấy được lòng trắc ẩn và dũng cảm của sư bà Đàm Lưu, cũng như quyết tâm mạnh mẽ của sư bà để làm những điều đúng đắn. Năm 1994, một trong những vị thiền sư đáng kính nhất Việt Nam, Hòa thượng Thích Thanh Từ, đã đến thăm thành phố San Jose. Sư bà Đàm Lưu đã mời vị sư phụ nổi tiếng này đến thuyết pháp tại chùa của mình. Lời mời của sư bà đã khiến một nhóm người cực đoan chống Cộng trong cộng đồng người Việt ở San Jose tức giận. Nhóm này lập luận rằng vì Việt Nam là một quốc gia của cộng sản nên vị thiền sư là gián điệp được gửi đến để quấy phá Phật giáo ở Mỹ. Theo quan điểm của nhóm cực đoan này, bất kỳ ai được phép rời khỏi Việt Nam dễ dàng đều là cộng sản. Họ tổ chức biểu tình trước chùa Đức Viên kéo dài nhiều ngày. Họ sử dụng nhiều phương tiện truyền thông đại chúng để tuyên truyền vu khống cả sư bà Đàm Lưu và sư phụ đến từ Việt Nam. Họ gây áp lực với sư bà Đàm Lưu, quấy rối và thậm chí đe dọa sư bà, với hy vọng sư bà sẽ hủy lời mời. Không bị ảnh hưởng bởi những người biểu tình, những lời buộc tội được lan truyền rộng rãi, và sự sa lầy nhắm vào sư bà và ni chúng, nhưng sư bà vẫn Đàm Lưu từ chối hủy bài giảng và tiếp tục những gì đã lên kế hoạch. Nhiều Phật tử tỏ ra lo lắng cho sự an toàn sư bà, nhưng Đàm Lựu không hề bận tâm đến những xáo trộn này và đã phát biểu rằng:

“Là Phật tử, chúng ta cần phải can đảm để làm những gì chúng ta tin là đúng theo Luật tạng và vì lợi ích của chúng sanh. Thầy Thích Thanh Từ với năm mươi năm hành thiền, đã có nhiều hiểu biết về tâm linh để dạy chúng ta. Tôi tin rằng cộng đồng Phật giáo của chúng ta sẽ học hỏi được nhiều điều từ những lời dạy của Ngài, và do đó chúng ta nên tiếp tục với kế hoạch của mình. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này. Tôi không sợ bất kỳ mối đe dọa hay áp lực nào từ bên ngoài. Điều khiến tôi quan tâm nhất là liệu tôi có thể rời khỏi thế gian này với một nụ cười hay không khi biết rằng tôi đã cố gắng hết sức để làm tất cả những điều có thể để mang lại lợi ích cho người khác. Tôi không muốn rời khỏi thế giới này vì hối tiếc đã không làm những điều đúng đắn và lo lắng cho sự an toàn của bản thân”.

Vào ngày thầy Thích Thanh Từ thuyết pháp, hàng nghìn người đã đổ về chùa lắng nghe, trong số đó có nhiều người không theo đạo Phật. Vào cuối buổi nói chuyện đầu tiên kéo dài hai giờ vào buổi sáng, đã có tới 538 người đăng ký học thiền với sư ông Thích Thanh Từ để trở thành một Phật tử chân chính. Lúc này thì chỉ còn khoảng ba mươi người biểu tình ngoài cổng chùa, chứ không phải còn hàng nghìn người như trước. Hôm đó trời mưa rất to và thời tiết lạnh, sư bà Đàm Lưu ra lệnh mở cổng chùa cho những người biểu tình trú mưa và được phép biểu tình trong chánh điện. Ni cô nhận được lệnh của sư bà Đàm Lưu, miễn cưỡng mở cổng. Vì sợ những người phản đối sẽ phá chùa, thế nên sư bà Đàm Lự đã giải thích với ni cô này:

“Họ đáng được quan tâm và tôn trọng. Không quan trọng việc họ có thể xấu đến mức nào; họ vẫn có Phật tánh. Họ vẫn có những hạt giống của sự giác ngộ, tình yêu thương và sự hiểu biết trong Alaya thức của họ. Họ có thể phản đối do thiếu kiến ​​thức hoặc do được cung cấp thông tin sai lệch. Trong mọi trường hợp, họ không nên bị đổ lỗi cho bất cứ điều gì họ đang làm. Đối với tôi, những kẻ gây rối thực sự là tham, sân, si trong tâm của con người ”.

Vì vậy, chùa Đức Viên đã mở cổng cho những người biểu tình vào trong. Trà nóng và bữa trưa được cung cấp cho tất cả những người có mặt ngày hôm đó, và cả những người biểu tình. Ba ngày sau, hai trong số những người biểu tình quay trở lại chùa, lần này không phải để phản đối, mà là để xin lỗi vì những gì họ đã làm do sự tức giận và sự thiếu hiểu biết của họ.

Vào giữa năm 1998 chùa Đức Viên của sư bà Đàm Lưu lại được báo tin về tình trạng tương tự. Lần này Thượng tọa Thích Trí Dũng, một nhà sư 93 tuổi từ Việt Nam đã đến Hoa Kỳ. Ghé thăm chùa Đức Viên và nghỉ lại qua đêm. Một số nhóm chống Cộng, sử dụng lý lẽ tương tự trong chuyến viếng thăm của sư ông Thích Thanh Từ năm 1994, đã biểu tình ồn ào trước cổng chùa, phản đối quyết định đón tiếp vị sư già này. Họ thậm chí còn chạy vào khu vực sinh hoạt của ni chúng vào ban đêm để tìm gặp sư bà Đàm Lưu. Các cuộc biểu tình ồn ào tiếp tục diễn ra hàng ngày, gần hai tuần lễ sau khi nhà sư đi thăm một ngôi chùa khác. Những người biểu tình còn quấy rối những Phật tử đến chùa, và hành động của họ đã gây khó chịu và làm hoảng sợ những người đi chùa. Một trong những đồng tu của sư bà Đàm Lựu đã triệu tập một cuộc họp để tìm cách giải quyết tình huống. Một luật sư có mặt đề nghị rằng nhà chùa nên yêu cầu một lệnh cấm, và kiện một đài phát thanh và một tạp chí về tội phỉ báng vì họ liên tục gọi sư bà là "Cộn Sản giả dạng thầy tu." Một nhà hoạt động xã hội đã đề xuất những biện pháp chống lại nhưng lúc đó sư bà Đàm Lưu đang hóa trị vì bệnh ung thư; sư bà không thể tham dự cuộc họp khi các biện pháp này được thảo luận. Mà sư bà Đàm Lưu chỉ đưa ra thông báo ngắn gọn:

“Các tăng ni có nhiều quy tắc để sống, theo Luật tạng. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất đối với họ là những lời hứa mà họ thực hiện trong buổi lễ xuất gia. Ba trong số này là: (1) Từ nay đến cuối đời, khi người ta làm tổn thương mình, tôi nguyện không làm hoặc nói bất cứ điều gì để họ tổn thương lại; (2) Từ nay đến cuối đời khi bị người ta vu khống, phỉ báng, khinh thường, xúc phạm, tôi nguyện không làm gì để trả thù; và (3) từ nay đến cuối đời khi người ta giận, tôi nguyện không đáp lại cơn giận của họ. Tôi chân thành cảm ơn bạn đã nỗ lực giúp đỡ, nhưng tôi thực sự nghĩ rằng chúng ta không nên thực hiện bất kỳ biện pháp nào trong số này. Điều chúng ta cần làm bây giờ là duy trì sự bình yên trong nội tâm và cầu nguyện cho những người không có được điều đó ”.

Cả nhóm ngồi im lặng một lúc. Cuối cùng không có gì được thực hiện để chống lại các cuộc biểu tình. Hai ngày sau cuộc họp đó, toàn thể cộng đồng tu sĩ ở Bắc California đã ra tuyên bố ủng hộ quan điểm của sư bà Đàm Lựu. Những người biểu tình cũng đã không quay trở lại để phản đối sư bà.

Sau 19 năm ở Mỹ, sư bà Đàm Lưu không có gì ngoài lòng từ bi, trí tuệ và sự dũng cảm dấn thân để bắt đầu một cuộc sống mới, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của Phật giáo trên đất Mỹ. Ngôi chùa do sư bà xây dựng được coi là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của kiến ​​trúc truyền thống Việt Nam ở hải ngoại và đã trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng cho nhiều cư sĩ và tu sĩ trên toàn thế giới. Ngoài cộng đồng ni sư đang cư trú tại chùa Đức Viên, nhiều sư cô hiện đang là giảng sư và trụ trì tại các chùa khác. Những sáng kiến ​​của sư bà Đàm Lưu trong việc tụng kinh Phật bằng tiếng Việt, giáo dục các thành viên về kiến ​​thức Phật học lẫn thế tục, để hướng về lợi ích cộng đồng, và cách giảng dạy không theo tông phái của cô, hiện đang được mô phỏng tại nhiều ngôi chùa trên khắp Hoa Kỳ và nước ngoài. Sư bà Đàm Lưu đã phụng sự Phật giáo mà không có sự phân biệt đối xử, cung cấp giáo Pháp từ nhiều nguồn khác nhau và chia sẻ giáo lý đến bất kỳ ai có nhu cầu. Sư bà Đàm Lựu đã làm những gì có thể để đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Ví dụ, sư bà Đàm Lưu tu theo truyền thống Đại thừa, nhưng sau đó phát triển thêm nhiều hướng hơn để học hỏi kinh nghiệm. Sư bà mời rất nhiều thiền sư Tây Tạng đến chùa, cũng như gửi các ni sư đến Miến Điện và Pháp để tu học theo các phương pháp tu khác của đức Phật. Điều quan trọng quan trọng là sư bà vẫn không bỏ pháp môn Tịnh độ, và thiền tông Việt Nam. Mọi người có thể thấy rằng sư bà Đàm Lưu rất cởi mở với các phương pháp tu học của Phật, và luôn chia sẻ những điều hữu ích trong quá trình luyện tập hàng ngày. 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói với cộng đồng của mình về thành tích của sư bà Đàm Lưu: “Quý vị thật may mắn. Vì được gần và học hỏi rất nhiều điều từ sư bà. Người đã sống trong chùa từ nhỏ, đối mặt với những rào cản và nỗi đau lớn, và đã chinh phục tất cả để trở thành một nữ tu thành tựu. Bồ đề tâm của sư bà chưa bao giờ thay đổi. Những y phục của sư bà mặc tu từ nhỏ vẫn còn gìn giữ tới hiện tại, chúng thật đẹp làm sao. Tôi xin cúi đầu bái phục. Hạnh nguyện của sư bà là lòng dũng cảm và tinh thần bất khuất trước mọi thử thách. Chỉ quan tâm đến những việc làm đúng đắn. Điều này giúp sư bà có được sự hưởng thụ cao cấp nhất của đời người. Với bàn tay của chính mình, sự kiên nhẫn, lòng từ bi và sức chịu đựng phi thường, sư bà đã tạo ra một trung tâm Phật giáo to lớn ở California. Sư bà đã bảo vệ, chăm sóc và dạy dỗ các đệ tử của mình như một người mẹ từ bi. Tất cả những người tiếp xúc với sư bà luôn cảm nhận được tình yêu thương vô hạn."

Sau nhiều năm sống chung với căn bệnh ung thư và biến chứng của bệnh tiểu đường, cuối cùng sư bà Đàm Lưu đã qua đời tại chùa Đức Viên Sanjose vào ngày 26 tháng 3 năm 1999, với sự chứng kiến của rất nhiều tăng ni. Các vị ấy đến từ các trung tâm Phật giáo trên khắp Hoa Kỳ, có những vị đến từ Pháp và Đức. Sau khi xác của Đàm Lưu được hỏa táng trong năm giờ ở 2000 độ C, một phát hiện đáng chú ý đã được minh chứng: sư bà đã để lại cho thế giới nhiều mảnh xương nhiều màu. Những thánh tích quý hiếm và đầy màu sắc này được gọi là xá lợi “Sariras” trong truyền thống Phật giáo. Từ xưa, thuật ngữ xá lợi được dùng để chỉ các bộ phận trên cơ thể của Đức Phật, chẳng hạn như tóc hoặc móng tay. Sau khi Đức Phật nhập diệt, thi hài của Ngài được hỏa táng, và các di vật để lại như xương và răng được gọi là xá lợi. Trong tín ngưỡng Phật giáo, chỉ có hài cốt của những người đạt được giác ngộ mới để lại màu sắc rực rỡ. Những hài cốt đầy màu sắc này, theo kinh Suvarnaprabhasa, là kết quả của quá trình thực hành liên tục suốt đời về đạo đức (sila), định (samadhi) và trí tuệ (prajna). 


Đối với trường hợp của sư bà Đàm Lựu, các mảnh xương của sư bà chuyển sang các màu đặc biệt: đỏ, xanh lá cây, vàng, đen, hồng, xanh lam và trắng ngà. Tủy xương của sư bà kết tinh thành những giọt ngọc trai màu xanh, hồng và vàng. Những hài cốt cực kỳ quý hiếm và đáng kinh ngạc này được coi là bằng chứng cho thấy sư bà Đàm Lựu đã đạt được thành tựu tâm linh rất cao trong việc tu hành Phật pháp.

Comments

Popular posts from this blog

Save Our Mangroves Now

I work as an otter conservationist to reverse the decline of mangrove habitats in Vietnam and across the globe to restore biodiversity, protect livelihoods, and mitigate against the impacts of the climate  crisis. Why mangroves matter - Superheroes of biodiversity Survival artists, nature’s kindergarten, climate savers – mangroves are versatile superheroes. They are habitat and nursery for over 3000 fish species, can store 3 to 5 times more carbon per area than tropical upland forests, and provide livelihoods for over 120 million people. But this unique ecosystem is under threat: more than a third of all mangrove forests have disappeared since the mid-20th century due to agriculture, logging, and urbanization. If deforestation rates continue, all mangroves could be lost by the end of this century. How do I protect and conserve mangroves? Our vision is a world in which thriving mangrove habitats exist in harmony with the communities they support. With a focus on Vietnam, the Save Ou...

Miss Mermaid International

APPLY NOW WHAT IS MISS MERMAID? Miss Mermaid International and National competitions are a unique series of beauty pageants bringing mermaiding, modeling, and ocean activism together on a worldwide scale. Mermaid Queens from around the world compete in skills such as underwater modeling, freediving, costume design, and traditional pageantry while supporting causes to help Save The Oceans. UNDERWATER GRACE Underwater Posing Competition At Miss Mermaid International, snorkeling and scuba diving judges watch as each mermaid delivers their best show in a one-breath freedive performance with the beautiful Red Sea coral reefs as a backdrop. Beyond underwater modeling, this performance in open water embodies the true magic of mermaids. The most graceful mermaid wins the "Most Photogenic Underwater" sash. CREATIVITY Costume Design Mermaids love getting crafty! At Miss Mermaid International each queen poses for a photoshoot featuring her self-made mermaid top and accessories. She can ...

Siren Earplug

Ear infections can be caused by leaving contaminated water in the ear after swimming. This infection, known as “swimmer's ear” or otitis externa, is not the same as the common childhood middle ear infection. The infection occurs in the outer ear canal and can cause pain and discomfort for swimmers of all ages. There is a mere reason why you might be on this page ... you want to protect your or your kids' eardrums against infection of water bacteria that can cause you earaches. It's a pain that will haunt you for a long time as a swimmer if you don't get used to wearing earplugs. The good part is that we're going to show you the best swimming earplugs out there. They fit snugly and mold to your ear giving you comfort and protection. You might even forget that they are wearing earplugs while swimming. Yes, high-quality swimming earplugs are really soft. We can easily say that Siren Earplug is one of the best picks out there. If your primary concern is comfort and you ...